18 luật được thông qua tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV
Lượt xem:
Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV diễn ra trong thời gian 29,5 ngày (khai mạc ngày 21/10/2024, bế mạc ngày 30/11/2024) đã xem xét, quyết định nhiều vấn đề quan trọng của đất nước. Trong công tác lập pháp, Quốc hội thông qua 18 luật, cho ý kiến lần đầu đối với 10 dự án luật khác.
Quốc hội đã thông qua 18 luật trên tinh thần đổi mới mạnh mẽ về tư duy trong công tác lập pháp theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển; các quy định của luật phải mang tính ổn định, có giá trị lâu dài; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; triệt để cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư sản xuất, kinh doanh, giảm chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp; kiên quyết chống tiêu cực, lợi ích nhóm; những vấn đề mới, đang trong quá trình vận động, thực tiễn biến động thường xuyên, chưa ổn định thì chỉ quy định khung, mang tính nguyên tắc và giao Chính phủ, các Bộ, ngành, chính quyền địa phương quy định để bảo đảm linh hoạt trong điều hành, phù hợp với thực tiễn. Cụ thể như sau:
Luật Đầu tư công (sửa đổi) được ban hành nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý về đầu tư công trên cơ sở kế thừa ưu điểm của Luật Đầu tư công năm 2019; khắc phục căn bản những khó khăn, hạn chế, vướng mắc, điểm nghẽn phát sinh trong quá trình thi hành Luật; luật hóa một số cơ chế, chính sách thí điểm, đặc thù đã được áp dụng và phát huy hiệu quả; tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính; bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất với quy định tại các luật, nghị quyết của Quốc hội mới được ban hành; nâng cao hiệu quả khai thác, quản lý và sử dụng nguồn lực đầu tư công đáp ứng yêu cầu xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, hiện đại và phát triển đất nước.
Luật gồm 7 chương, 103 điều (bổ sung 1 chương, tăng thêm 2 điều và sửa đổi 65 điều so với Luật hiện hành, trong đó có 32 điều chỉ sửa đổi, bổ sung về từ ngữ để làm rõ hơn và tạo sự thống nhất, đồng bộ trong triển khai, mà không làm thay đổi nội hàm chính sách). Luật quy định một số nội dung nổi bật như: (i) Điều chỉnh quy mô dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A, B, C phù hợp với yêu cầu quản lý đầu tư công trong tình hình mới; đẩy mạnh phân cấp thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư công đối với các dự án nhóm B, nhóm C từ Hội đồng nhân dân sang Ủy ban nhân dân; phân cấp điều chỉnh Kế hoạch đầu tư công trung hạn giữa các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương từ Ủy ban Thường vụ Quốc hội sang Thủ tướng Chính phủ đối với ngân sách Trương ương, điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn giữa các Sở, ngành, địa phương từ Hội đồng nhân dân cấp tỉnh sang Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; (ii) Thể chế hoá 3 chính sách đặc thù đã được Quốc hội cho phép thí điểm (gồm: Tách công tác đền bù, tái định cư thành dự án độc lập; quy định giao 1 Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan chủ quản thực hiện dự án đi qua địa bàn từ 2 đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên; cho phép Hội đồng nhân dân cấp tỉnh bố trí vốn ngân sách địa phương để uỷ thác thực hiện các chính sách tín dụng thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội); (iii) Điều chỉnh các nội dung theo tinh thần đổi mới trong công tác xây dựng pháp luật đó là luật chỉ quy định những vấn đề có tính nguyên tắc và giao Chính phủ quy định những vấn đề cụ thể theo thẩm quyền, quy định chi tiết đối với các vấn đề có tính linh hoạt, dễ bị thay đổi và các nội dung thuộc thẩm quyền quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương…
Luật Đầu tư công, số 58/2024/QH15;
Luật Địa chất và khoáng sản được ban hành nhằm thể chế hóa quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 10/2/2022 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; khắc phục những bất cập của Luật Khoáng sản hiện hành.
Luật gồm 12 chương, 111 điều, quy định một số nội dung cơ bản về: (i) Việc điều tra cơ bản địa chất, điều tra địa chất về khoáng sản; (ii) Bảo vệ tài nguyên địa chất, khoáng sản chưa khai thác; (iii) Hoạt động khoáng sản, thu hồi khoáng sản; (iv) Chế biến khoáng sản thuộc dự án đầu tư khai thác khoáng sản; (v) Tài chính về địa chất, khoáng sản và đấu giá quyền khai thác khoáng sản; (vi) Quản lý nhà nước về địa chất, khoáng sản trong phạm vi đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam…
Luật Địa chất và khoáng sản, số 54/2024/QH15;
Luật Điện lực (sửa đổi) được Quốc hội xem xét, thông qua theo quy trình tại 1 kỳ họp nhằm kịp thời thể chế hóa các đường lối, chủ trương mới của Đảng, khắc phục những vướng mắc, bất cập của Luật hiện hành, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, góp phần thúc đẩy ngành điện lực phát triển bền vững, hiệu quả, đạt mục tiêu đã đề ra trong giai đoạn từ nay tới năm 2030 và những năm tiếp theo, đảm bảo an ninh năng lượng, cung ứng điện cho phát triển kinh tế - xã hội.
Luật gồm 9 chương, 81 điều, quy định một số nội dung cơ bản như: (i) Quy hoạch phát triển điện lực, đầu tư xây dựng dự án điện lực; (ii) Phát triển điện năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới; (iii) Giấy phép hoạt động điện lực; (iv) Thị trường điện cạnh tranh, hoạt động mua bán điện; (v) Vận hành, điều độ hệ thống điện quốc gia; (vi) Bảo vệ công trình điện lực và an toàn trong lĩnh vực điện; (vii) Trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động điện lực và sử dụng điện; (viii) Quản lý nhà nước về điện lực…
Luật Điện lực, số 61/2024/QH15.
Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ được ban hành nhằm bổ sung, quy định đầy đủ, toàn diện về hoạt động cứu nạn, cứu hộ, mà lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đang được giao thực hiện; khắc phục kịp thời những hạn chế, bất cập; bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật và tăng cường công tác quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong tình hình mới.
Luật gồm 8 chương, 55 điều, quy định một số nội dung nổi bật như: (i) Trách nhiệm báo cháy, báo tình huống cứu nạn, cứu hộ; (ii) Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; (iii) Các hành vi bị nghiêm cấm; (iv) Phòng cháy đối với nhà ở; phòng cháy đối với nhà ở kết hợp sản xuất, kinh doanh; phòng cháy đối với cơ sở thuộc diện quản lý về phòng cháy, chữa cháy (nhà, công trình, địa điểm được sử dụng để ở, sản xuất, kinh doanh, hoạt động thương mại, làm việc hoặc mục đích khác, được xây dựng, hoạt động theo quy định của pháp luật, thuộc danh mục do Chính phủ quy định); phòng cháy trong lắp đặt, sử dụng điện cho sinh hoạt, sản xuất; (v) Huy động lực lượng, người, phương tiện, tài sản tham gia chữa cháy và tham gia cứu nạn, cứu hộ; thành lập, quản lý và hoạt động lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ ở cơ sở, lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ chuyên ngành và lực lượng dân phòng; (vi) xử lý đối với cơ sở không bảo đảm yêu cầu về phòng cháy, chữa cháy và không có khả năng khắc phục theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật tại thời điểm đưa vào hoạt động đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành…
Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ 2024 số 55/2024/QH15
Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn được ban hành nhằm tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất cho công tác quy hoạch đô thị và quy hoạch nông thôn, khắc phục những bất cập, hạn chế của quy định hiện hành; nâng cao chất lượng công tác lập, thẩm định, phê duyệt, điều chỉnh và tổ chức thực hiện quy hoạch đô thị và nông thôn, đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Luật gồm 5 chương, 59 điều, quy định một số nội dung cơ bản như: (i) Quy định rõ hệ thống quy hoạch đô thị và nông thôn gồm 5 loại, 3 cấp độ quy hoạch, các trường hợp phải lập quy hoạch chung, quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết; trong đó, giản lược tối đa các trường hợp phải lập quy hoạch và cấp độ quy hoạch phải lập; (ii) Đơn giản hóa trình tự, thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, bảo đảm minh bạch, khả thi, thuận lợi; (iii) Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong lập, thẩm định, phê duyệt, điều chỉnh cục bộ quy hoạch đô thị và nông thôn gắn với kiểm soát, giám sát việc thực hiện, bảo đảm quản lý thống nhất từ trung ương tới địa phương; (iv) Quy định rõ về nguồn kinh phí cho công tác quy hoạch, lựa chọn tổ chức tư vấn lập nhiệm vụ quy hoạch, quy hoạch đô thị và nông thôn, bảo đảm các điều kiện thực hiện công tác quy hoạch…
Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn, số 47/2024/QH15;
Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) được ban hành nhằm hướng tới chính sách thuế thống nhất, công khai, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện; đồng thời, tăng cường cải cách thủ tục hành chính, tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý thuế để phòng, chống trốn thuế, thất thu và nợ thuế; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng; tạo môi trường pháp luật thống nhất, đồng bộ và khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật hiện hành.
Luật gồm 4 chương, 17 điều, quy định một số nội dung nổi bật như: (i) Quy định thuế suất 5% đối với mặt hàng phân bón, máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ sản xuất nông nghiệp, tàu khai thác thủy sản để góp phần tránh hiệu ứng tăng giá thành sản phẩm, tạo thuận lợi cho ngành sản xuất trong nước trong bối cảnh cạnh tranh với hàng nhập khẩu, hỗ trợ tốt hơn cho sản xuất nông nghiệp; (ii) Nâng ngưỡng doanh thu không chịu thuế lên mức 200 triệu đồng/năm. Theo đó, hàng hóa, dịch vụ của hộ, cá nhân kinh doanh có mức doanh thu hàng năm từ 200 triệu đồng trở xuống không thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng; (iii) Bỏ quy định cho phép không nộp thuế giá trị gia tăng đầu ra, nhưng lại được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với nông sản chưa chế biến hoặc sơ chế ở khâu thương mại để bảo đảm nguyên tắc của thuế giá trị gia tăng là chỉ được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào khi đầu ra thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng; (iv) Cho phép hoàn thuế đối với cơ sở sản xuất, cung ứng cả dịch vụ chịu thuế 5% và 10%; (v) Sửa đổi quy định giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu; (vi) Điều chỉnh thuế suất của một số hàng hóa, dịch vụ; (vii) Bổ sung giá tính thuế đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại…
Luật Thuế giá trị gia tăng của Quốc hội, số 48/2024/QH15;
Luật Công chứng (sửa đổi) được ban hành nhằm khắc phục hạn chế, vướng mắc trong việc thi hành pháp luật về công chứng; bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiệu quả của hoạt động công chứng phù hợp với tính chất là dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm thực hiện, góp phần bảo đảm an toàn trong các giao dịch dân sự, kinh tế, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, bền vững, hạn chế tranh chấp, khiếu kiện.
Luật Công chứng, số 46/2024/QH15;
Luật gồm 8 chương, 76 điều (giảm 5 điều so với Luật hiện hành), trong đó có một số quy định mới như: (i) Quy định tiêu chí về giao dịch phải công chứng; (ii) Quy định việc chứng nhận bản dịch không còn thuộc phạm vi công chứng, mà là hoạt động chứng thực chữ ký người dịch theo quy định của pháp luật về chứng thực; (iii) Sửa đổi, bổ sung quy định về việc đào tạo nghề công chứng, thời gian tập sự hành nghề công chứng, độ tuổi hành nghề công chứng; (iv) Bổ sung quy định cho phép thành lập Văn phòng công chứng theo loại hình doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh tại các đơn vị hành chính cấp huyện khi đáp ứng các tiêu chí quy định trong Luật; (v) Bổ sung quy định về điều kiện thành lập và hoạt động của Phòng công chứng nhằm bảo đảm sự bình đẳng trong hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng; (vi) Bổ sung quy định về công chứng điện tử; (vii) Quy định chặt chẽ về cơ sở dữ liệu công chứng, việc xây dựng, quản lý, vận hành cơ sở dữ liệu công chứng; (viii) Quy định chặt chẽ việc công chứng ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng; (ix) Giao Chính phủ quy định theo thẩm quyền về hồ sơ, trình tự, thủ tục trong hoạt động công chứng để kịp thời thực hiện chủ trương đổi mới tư duy lập pháp….
Luật Công đoàn (sửa đổi) được ban hành để tiếp tục thể chế hóa Hiến pháp, các chủ trương, chính sách của Đảng; đáp ứng yêu cầu đối với hoạt động của tổ chức Công đoàn trong thời kỳ mới và yêu cầu hội nhập quốc tế; khắc phục những hạn chế của Luật hiện hành; bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
Luật gồm 6 chương, 37 điều (tăng 4 điều so với Luật hiện hành) quy định một số nội dung mới như: (i) Mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với người lao động Việt Nam làm việc không có quan hệ lao động, bổ sung quyền gia nhập công đoàn của người lao động là công dân nước ngoài, việc gia nhập Công đoàn Việt Nam của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp; (ii) Bổ sung quyền giám sát và phản biện xã hội của Công đoàn; (iii) Bổ sung các trường hợp miễn, giảm, tạm dừng đóng kinh phí công đoàn nhằm giảm bớt gánh nặng cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã khi gặp khó khăn; (iv) Sửa đổi quy định nhằm tăng tính công khai, minh bạch, bảo đảm có sự kiểm tra, giám sát trong quản lý, sử dụng tài chính công đoàn, tài sản công đoàn.
Luật Công đoàn, số 50/2024/QH15;
Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) được ban hành nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về di sản văn hóa, tăng cường phân cấp, phân quyền, khắc phục những hạn chế, bất cập về thể chế, bảo đảm phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính; phát huy nguồn lực xã hội, tạo thuận lợi cho hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Luật gồm 9 chương, 95 điều với một số nội dung mới như: (i) Quy định cụ thể việc xác lập di sản văn hóa theo từng loại hình sở hữu toàn dân, sở hữu chung, sở hữu riêng phù hợp với Bộ luật Dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan; (ii) Quy định chính sách của Nhà nước trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho các hoạt động có tính đặc thù; đào tạo, bồi dưỡng nhân lực tham gia quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; (iii) Hoàn thiện các hành vi bị nghiêm cấm để bảo đảm chính xác, đầy đủ hơn, làm cơ sở cho việc hướng dẫn thực hiện, kiểm tra, xử lý vi phạm trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; (iv) Xác định cụ thể các trường hợp điều chỉnh ranh giới khu vực bảo vệ I, khu vực bảo vệ II của di tích, khu vực di sản thế giới và vùng đệm của di sản thế giới; quy định nguyên tắc và thẩm quyền thực hiện điều chỉnh ranh giới các khu vực bảo vệ để bảo đảm tính khả thi khi áp dụng trên thực tiễn; (v) Quy định cụ thể việc sửa chữa, cải tạo, xây dựng công trình, nhà ở riêng lẻ trong và ngoài khu vực bảo vệ di tích; (vi) Quy định về quản lý di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, xử lý di vật, cổ vật được phát hiện, giao nộp; (vii) Bổ sung Quỹ bảo tồn di sản văn hóa; (viii) Quy định bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu; (ix) Bổ sung quy định nhằm hỗ trợ sự phát triển của hệ thống bảo tàng…
Luật Di sản văn hóa, số 45/2024/QH15;
Luật Dữ liệu được Quốc hội cho ý kiến và thông qua theo quy trình tại 1 kỳ họp nhằm đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ công cuộc chuyển đổi số quốc gia, xây dựng Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; tạo cơ sở pháp lý triển khai thực hiện và tạo bước đột phá về chuyển đổi số một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và quản lý nhà nước.
Luật gồm có 6 chương, 46 điều, quy định những nội dung cơ bản về dữ liệu số; việc xây dựng, phát triển, bảo vệ, quản trị, xử lý, sử dụng dữ liệu số; Trung tâm dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia; sản phẩm, dịch vụ về dữ liệu số; quản lý về dữ liệu số; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động về dữ liệu số...
Luật Dữ liệu, số 60/2024/QH15;
Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) được ban hành nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tương thích với điều ước quốc tế; phát huy vai trò của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong phòng, chống mua bán người ngay từ cơ sở và giải quyết những tồn tại, khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện Luật trong thời gian qua, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác phòng, chống mua bán người hiện nay và trong thời gian tới.
Luật gồm 8 chương, 63 điều (tăng 5 điều so với Luật hiện hành); trong đó có một số nội dung mới như: (i) Chính sách ưu tiên bố trí ngân sách cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; (ii) Quyền của nạn nhân được xem xét không xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự hành vi vi phạm pháp luật là hệ quả trực tiếp của hành vi mua bán người; (iii) Mở rộng đối tượng bảo vệ gồm: nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, người dưới 18 tuổi đi cùng, người thân thích của nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, cá nhân tham gia phòng, chống mua bán người hoặc hỗ trợ nạn nhân; (iv) Mở rộng chính sách hỗ trợ cho nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân và người dưới 18 tuổi đi cùng như: trợ giúp pháp lý, hỗ trợ pháp luật, hỗ trợ học nghề, tư vấn việc làm, trợ cấp khó khăn ban đầu, hỗ trợ vay vốn, hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế trong năm đầu tiên nếu nạn nhân chưa có bảo hiểm y tế… Bên cạnh đó, Luật còn quy định hành vi nghiêm cấm mạnh hơn, bao gồm cả nghiêm cấm hành vi “thỏa thuận mua bán người từ khi còn đang là bào thai” và nhiều hành vi khác nhằm ngăn chặn từ sớm, từ xa và xử lý hiệu quả các hành vi liên quan đến mua bán người.
Luật Phòng, chống mua bán người của Quốc hội, số 53/2024/QH15;
Luật Phòng không nhân dân được ban hành nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng, huy động, tổ chức hoạt động phòng không nhân dân, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội để phát triển kinh tế; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; tạo lập khung pháp lý đầy đủ cho hoạt động quản lý tàu bay không người lái, phương tiện bay siêu nhẹ.
Luật gồm 7 chương, 47 điều; quy định các nội dung chủ yếu về: (i) Lực lượng phòng không nhân dân; (ii) Hoạt động phòng không nhân dân; (iii) Quản lý tàu bay không người lái, phương tiện bay khác và bảo đảm an toàn phòng không; (iv) Quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân; nguồn lực, chế độ, chính sách cho phòng không nhân dân...
Luật Phòng không nhân dân, số 49/2024/QH15;
Luật Tư pháp người chưa thành niên được ban hành để thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng liên quan đến chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em; xây dựng các quy định phù hợp với đặc thù lứa tuổi, tâm lý của người chưa thành niên, khắc phục những hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành; phù hợp với xu hướng chung và thông lệ của nhiều quốc gia trên thế giới.
Luật gồm 5 phần, 10 chương, 179 điều; quy định một số nội dung lớn như: (i) Quy định 12 biện pháp xử lý chuyển hướng cùng với các điều kiện được áp dụng, thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên phạm tội (bao gồm 11 biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng và biện pháp giáo dục tại Trường giáo dưỡng); trách nhiệm của người chưa thành niên vi phạm nghĩa vụ một cách chặt chẽ để bảo đảm các quy định này vừa có tính nhân văn, vừa bảo đảm công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm; (ii) Quy định thời hạn điều tra, truy tố, xét xử đối với người chưa thành niên không quá ½ thời hạn đối với người trưởng thành, trừ trường hợp vụ án có tính chất phức tạp; (iii) Giảm mức phạt tù tối đa đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi còn 9 năm, đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi còn 15 năm nhằm thể chế hóa yêu cầu của Đảng về “Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự... đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong xử lý người phạm tội” và phù hợp với xu hướng chung của các nước trên thế giới; (iv) Quy định trại giam riêng, phân trại hoặc khu giam giữ dành riêng cho người chưa thành niên là phạm nhân trong trại giam. Ngoài ra, Luật còn nhiều chính sách chuyên biệt khác chỉ áp dụng với người chưa thành niên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự…
Luật Tư pháp người chưa thành niên của Quốc hội, số 59/2024/QH15;
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dược được ban hành nhằm kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về thể chế, pháp luật trong hoạt động quản lý thuốc; bảo đảm người dân được tiếp cận thuốc chất lượng, kịp thời, giá cả hợp lý; trong đó, có việc bảo đảm thuốc cho phòng, chống dịch bệnh và các trường hợp cấp bách phát sinh trong thực tiễn; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động về dược, bảo đảm tăng khả năng tiếp cận thuốc của người dân, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.
Luật gồm 3 điều, trong đó, sửa đổi 50 điều, bãi bỏ 2 điểm, 2 khoản và 1 điều của Luật hiện hành và bổ sung 3 điều mới, với những điểm mới cơ bản là: (i) Tạo hành lang pháp lý cho các hình thức, phương thức kinh doanh mới là cơ sở tổ chức chuỗi nhà thuốc và kinh doanh thuốc, nguyên liệu làm thuốc theo phương thức thương mại điện tử; (ii) Cụ thể hóa quyền và trách nhiệm của cơ sở kinh doanh dược có vốn đầu tư nước ngoài ngay trong Luật để bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước; (iii) Mở rộng quyền của cơ sở sản xuất, cơ sở xuất khẩu, nhập khẩu, cơ sở bán buôn thuốc, nguyên liệu làm thuốc trong việc bán trực tiếp cho một số cơ sở y tế, cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở kiểm nghiệm, cơ sở nghiên cứu, đào tạo và một số cơ sở khác; cho phép cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nhập khẩu thuốc phục vụ nhu cầu điều trị đặc biệt của bệnh nhân tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; (iv) Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc; (vi) Bãi bỏ thủ tục xác nhận nội dung thông tin thuốc; tăng cường phân cấp, phân quyền, phát huy vai trò của Sở Y tế trong thu hồi để kịp thời xử lý thuốc vi phạm chất lượng trên địa bàn quản lý, đảm bảo sử dụng thuốc an toàn, hiệu quả; (vii) Quy định các biện pháp quản lý về giá để phù hợp với Luật Giá và biện pháp đặc thù trong quản lý giá thuốc...
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dược, số 44/2024/QH15;
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam được ban hành theo quy trình tại 1 kỳ họp và theo trình tự, thủ tục rút gọn nhằm thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về xây dựng đội ngũ sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh, đáp ứng yêu cầu đến năm 2025 cơ bản xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh; tạo tiền đề vững chắc phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; thu hút, trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ Quân đội nhân dân.
Luật gồm 3 điều, sửa đổi, bổ sung 14 điều của Luật hiện hành, quy định một số nội dung cơ bản về: (i) Chức vụ cơ bản và chức vụ, chức danh tương đương của sĩ quan; (ii) Hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất của sĩ quan; (iii) Cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan là cấp tướng; (iv) Thẩm quyền và một số chế độ, chính sách đối với sĩ quan (như thăng quân hàm, nâng lương trước thời hạn, chế độ bảo hiểm xã hội, chế độ nhà ở, đất ở, chăm sóc sức khỏe, chế độ, chính sách đối với sĩ quan biệt phái khi kết thúc nhiệm vụ biệt phái, trách nhiệm của Chính phủ, bộ, ngành, địa phương)...
Bên cạnh đó, để bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật, Luật này cũng quy định việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân về thẩm quyền quy định chức vụ, chức danh có cấp bậc hàm cao nhất là Trung tướng, Thiếu tướng, tiêu chí, tiêu chuẩn để xét thăng cấp bậc hàm vượt bậc đối với cấp bậc hàm cấp tướng và cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan là cấp tướng của đơn vị thành lập mới, đơn vị được tổ chức lại, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, nhưng không vượt quá số lượng tối đa vị trí cấp tướng theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, số 52/2024/QH15;
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế được ban hành theo quy trình tại 1 kỳ họp nhằm khắc phục các tồn tại, vướng mắc mang tính cấp bách sau 15 năm thực hiện, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan.
Luật gồm 3 điều, trong đó sửa đổi, bổ sung 40 điều của Luật hiện hành, bổ sung 2 điều với một số nội dung mới, như: (i) Sửa đổi, cập nhật đối tượng tham gia, trách nhiệm đóng bảo hiểm y tế, phương thức, thời hạn đóng, trách nhiệm lập danh sách đóng bảo hiểm y tế, thời hạn thẻ có giá trị sử dụng; (ii) Quy định về đăng ký khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu, chuyển người bệnh giữa các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế theo cấp chuyên môn kỹ thuật; (iii) Quy định mức hưởng bảo hiểm y tế khi thực hiện thông cấp khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế, mở rộng một số trường hợp được vượt tuyến để lên thẳng cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp chuyên sâu; mở rộng một số phạm vi quyền lợi cho người có thẻ bảo hiểm y tế; quy định trường hợp mắc bệnh mãn tính chuyển về y tế cơ sở để quản lý; (iv) Điều chỉnh tỷ lệ chi cho khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế, chi dự phòng và tổ chức hoạt động bảo hiểm y tế từ số tiền đóng bảo hiểm y tế; quy định rõ thời hạn thông báo kết quả giám định chi phí khám bệnh, chữa bệnh; (v) Bổ sung cơ chế mua thuốc, thiết bị y tế và thanh toán thuốc, thiết bị y tế trong trường hợp cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thiếu thuốc, thiết bị y tế và cơ chế thanh toán chi phí dịch vụ cận lâm sàng được chuyển đến cơ sở khác đủ điều kiện thực hiện; (vi) Bổ sung quy định cụ thể về chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm y tế và các biện pháp xử lý …
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế, số 51/2024/QH15;
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư và Luật Đấu thầu được ban hành theo quy trình tại 1 kỳ họp và theo trình tự, thủ tục rút gọn để thể chế hóa các chủ trương, định hướng lớn của Đảng, tạo hành lang pháp lý minh bạch, đồng bộ, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025; tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cấp bách trong thực tiễn.
Luật gồm 6 điều với những nội dung mới cơ bản sau: (i) Bổ sung quy định điều chỉnh quy hoạch theo trình tự, thủ tục rút gọn, theo đó bổ sung quy định về căn cứ điều chỉnh quy hoạch theo trình tự rút gọn cho các dự án khẩn cấp, cấp bách theo quy định của Chính phủ; phân cấp cho Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt điều chỉnh quy hoạch ngành quốc gia và quy hoạch tỉnh theo trình tự, thủ tục rút gọn; bổ sung nội dung phân cấp cho Bộ, cơ quan ngang Bộ ban hành kế hoạch thực hiện quy hoạch ngành quốc gia để bảo đảm sự linh hoạt trong tổ chức thực hiện quy hoạch; (ii) Bổ sung quy định thủ tục đầu tư đặc biệt nhằm thu hút đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên như đổi mới sáng tạo và công nghệ cao, cho phép đánh giá sự phù hợp của dự án với quy hoạch có liên quan, tránh cách hiểu phải đánh giá sự phù hợp của dự án với toàn bộ các loại quy hoạch; (iii) Quy định các nguyên tắc cơ bản về cơ chế thanh toán cho nhà đầu tư đối với 3 hình thức, gồm: thanh toán bằng quỹ đất, thanh toán bằng ngân sách nhà nước và không yêu cầu thanh toán, Luật cũng giao Chính phủ quy định chi tiết cơ chế hợp đồng BT đối với các hình thức thanh toán trên; (iv) Cho phép chuyển thẩm quyền từ Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sang Chính phủ quyết định trường hợp trước khi đàm phán, ký điều ước quốc tế, thỏa thuận vay có quy định về đấu thầu khác hoặc chưa được quy định tại Luật; bổ sung quy định về lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt; chỉnh lý nâng hạn mức chỉ định thầu từ 100 triệu lên 300 triệu đồng đối với gói thầu thuộc dự toán mua sắm không hình thành dự án, đồng thời không phân biệt hạn mức chỉ định thầu giữa các gói thầu sử dụng nguồn vốn chi thường xuyên và vốn đầu tư công; cho phép cơ sở y tế công lập tự quyết định mua sắm thuốc, thiết bị y tế và vắc xin dịch vụ;…
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư và Luật Đấu thầu, số 57/2024/QH15;
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán; Luật Kế toán; Luật Kiểm toán độc lập; Luật Ngân sách nhà nước; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công; Luật Thuế thu nhập cá nhân; Luật Quản lý thuế; Luật Dự trữ quóc gia; Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội xem xét, thông qua theo quy trình tại 1 kỳ họp và theo trình tự, thủ tục rút gọn, tập trung sửa đổi, bổ sung một số quy định của các luật còn mâu thuẫn, gây khó khăn, vướng mắc, yêu cầu cấp bách cần sửa đổi nhằm thể chế hóa đầy đủ các chủ trương, định hướng được xác định trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng về các chính sách tài chính; tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh; huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính nhà nước cho tăng trưởng kinh tế; đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ, tăng cường phân cấp, phân quyền; bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất giữa các quy định của pháp luật, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Luật gồm 11 điều, quy định các nội dung cơ bản như: (i) Bổ sung, quy định cụ thể về khái niệm thao túng thị trường chứng khoán; quy định về nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan đến hồ sơ, tài liệu báo cáo liên quan đến hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng khoán; chào bán chứng khoán riêng lẻ… nhằm nâng cao tính minh bạch, hiệu quả trong hoạt động phát hành, chào bán chứng khoán; tăng cường công tác giám sát và xử lý nghiêm các hành vi gian lận, lừa đảo, bảo đảm hiệu quả phòng ngừa, xử lý vi phạm trên thị trường chứng khoán; (ii) Đơn giản nội dung chứng từ, nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu quản lý; hỗ trợ hoạt động chuyển đổi số; nâng cao năng lực quản lý Nhà nước trong lĩnh vực kế toán, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với người làm kế toán; (iii) Quy định những người không được đăng ký hành nghề kiểm toán, không được tiếp tục hành nghề kiểm toán; xử lý vi phạm pháp luật về kiểm toán độc lập, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý Nhà nước đối với kiểm toán độc lập, nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập; (iv) Giao Chính phủ quyết định phân bổ, sử dụng các khoản chi của ngân sách trung ương chưa phân bổ và Ủy ban nhân dân các cấp quyết định các khoản chưa phân bổ vốn ngân sách địa phương; bổ sung quy định chi ngân sách nhà nước thực hiện một số nhiệm vụ từ cả nguồn chi đầu tư và chi thường xuyên, đồng thời, giao Chính phủ quy định cụ thể; (v) Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền và nâng cao hiệu quả trong quản lý, sử dụng tài sản công; sửa đổi quy định về bảo dưỡng, sửa chữa tài sản công; bổ sung quy định về chuyển giao tài sản công, tài sản kết cấu hạ tầng về địa phương quản lý, xử lý; trình tự, thủ tục xử lý tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân; (vi) Sửa đổi, bổ sung quy định về hoàn thuế, cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế; khai thuế, tính thuế trong hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số; áp dụng công nghệ thông tin, kỹ thuật hiện đại…; (vii) Bổ sung cơ chế cho phép Thủ tướng Chính phủ quyết định xuất hàng dự trữ quốc gia phục vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước; phân cấp thẩm quyền trong quyết định ngân sách trung ương mua bù hàng dự trữ quốc gia; (viii) Sửa đổi, bổ sung một số quy định có liên quan trong Luật Thuế Thu nhập cá nhân, Luật Xử lý vi phạm hành chính để bảo đảm thống nhất với nội dung được sửa đổi, bổ sung trong các luật có liên quan.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Quản lý thuế, Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật Dự trữ quốc gia, Luật Xử lý vi phạm hành chính, số 56/2024/QH15;
Ngoài ra, Quốc hội đã xem xét cho ý kiến đối với 10 dự án Luật gồm: Luật Công nghiệp công nghệ số; Luật Hóa chất (sửa đổi); Luật Nhà giáo; Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi); Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi); Luật Việc làm (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật./.